Cần sửa đổi quy định phải bồi thường khi cố ý đưa ra kết luận giám định tư pháp sai để nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp

01/10/2019

Luật số 13/2012/QH13 về Giám định tư pháp, được thông qua tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII và đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013;  thường được gọi là Luật Giám định tư pháp năm 2012. Qua quá trình triển khai thực hiện Luật, Chính phủ và các Bộ, Ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành Luật, như: Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp; Thông tư số 33/2014/TT-BCA ngày 05 tháng 8 năm 2014 của Bộ Công an về Quy định chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám định viên kỹ thuật hình sự; Thông tư số 02/2014/TT-BYT ngày 15 tháng 01 năm 2014 của Bộ Y tế về Quy định tiêu chuẩn, hồ sơ, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám định viên pháp y và Pháp y tâm thần và nhiều văn bản của các Bộ, ngành, địa phương. Trên cả nước đã thành lập được 143 tổ chức Giám định tư pháp công lập, 01 Văn phòng Giám định tư pháp, 197 tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc, hoạt động với 6.154 Giám định viên tư pháp và 1.670 Người Giám định tư pháp theo vụ việc( ). Công tác Giám định tư pháp đã có những bước chuyển biến tích cực, hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng lên, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo tính chính xác, khách quan, đúng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và gần đây là góp phần quan trọng vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta. 
Tuy nhiên, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 23 của Luật: Giám định viên “Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật”. Đây là quy định mang tính nhân văn, nhưng tồn tại những hạn chế trong hoạt động giám định tư pháp và cần được sửa đổi khi sửa đổi, bổ sung Luật Giám định tư pháp năm 2012.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Giám định tư pháp năm 2012, thì “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này”. Với đặc thù của hoạt động giám định tư pháp là: Giám định viên tư pháp sử dụng chuyên môn, nghiệp vụ đã được đào tạo và kỹ năng của cá nhân để kết luận về tính chính xác của mẫu giám định để phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án dân sự; việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính… theo quyết định trưng cầu hoặc yêu cầu giám định. Do đó, người được đề nghị bổ nhiệm Giám định viên tư pháp phải đáp ứng đầy đủ các quy định về tiêu chuẩn được quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật, nhất là quy định về trình độ và nghiệp vụ tại điểm b khoản 1 Điều 7 là “Có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên.”. Nhưng vấn đề về nghiệp vụ và kỹ năng của từng cá nhân, thì sẽ không thể có một chuẩn mực chung cho tất cả Giám định viên tư pháp, nên không loại trừ sẽ có trường hợp có sai sót không do cố ý đưa ra kết luận sai, tức là làm sai do vô ý. Vì thế, Luật Giám định tư pháp năm 2012 đã quy định những trường hợp làm sai do cố ý và có gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn các thiệt hại đó theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian gần đây, qua các phương tiện thông tin truyền thông, chúng ta đã biết đến nhiều vụ việc cố ý làm giả bệnh án tâm thần để miễn trừ trách nhiệm hình sự, như trường hợp đối tượng ở Đăk Nông đã 02 lần giết người, nhưng vẫn thoát tội “nhờ bệnh án tâm thần”( ); gần đây là vụ việc nguyên Bác sĩ Phó Trưởng khoa tâm thần người cao tuổi của Bệnh viện Tâm thần Trung ương I thuộc Bộ Y tế làm giả bệnh án tâm thần cho đối tượng hình sự phạm tội giết người( ) và cũng chính tại Bệnh viện này, Công an thành phố Hà Nội đã phát hiện có 34/94 hồ sơ  không có bệnh án điều trị nội trú tại bệnh viện - là hồ sơ giả( ). Qua đó, bệnh án tâm thần đã trở thành “kim bài miễn tử” cho các đối tượng hình sự; hay như trường hợp làm giả bệnh án tâm thần để người nhà được hưởng chế độ chính sách của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Quảng Minh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa( ). Vậy thì trách nhiệm các Bác sĩ - Giám định viên tư pháp về tâm thần này như thế nào? 
Chúng ta đã được biết đến những trường hợp oan sai, như: Vụ án oan sai, làm ông Nguyễn Thanh Chấn phải ngồi tù oan 10 năm về tội danh tội giết người, khiến gia đình tan nát; làm ông Hàn Đức Long phải ngồi tù oan hơn 11 năm về tội danh giết người và hiếp dâm ở Bắc Giang; vụ án “Vườn Điều” khiến ông Huỳnh Văn Nén và cả gia đình ở Bình Thuận vướng vòng lao lý( )… trách nhiệm chính thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, các Điều tra viên, Kiểm sát viên… thì kết luận giám định của Giám định viên tư pháp trong trường hợp được trưng cầu, cũng có ảnh hưởng nhất định đến kết quả vụ án.
Trong lĩnh vực dân sự, kết luận giám định của Giám định viên tư pháp, Người Giám định tư pháp theo vụ việc về chữ viết, chữ ký; tình trạng sức khỏe khi giám định thương tật; quy trình thực hiện, chất lượng công trình xây dựng… sẽ ảnh hưởng rất quan trọng đến quyền và nghĩa vụ của các bên có tranh chấp trong các hợp đồng, giao dịch được xét xử bởi cơ quan Tòa án cấp có thẩm quyền hoặc cơ quan Trọng tài thương mại. Khi đã đưa ra kết luận sai, thường thì không giám định viên nào lại tự nhận là mình đã cố tình đưa ra kết luận sai, trừ khi có yếu tố và được làm rõ qua quá trình truy tố, xét xử hình sự, mà thường là chỉ thừa nhận “có sai sót” về nghiệp vụ. Như vậy, ai sẽ chịu trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn do kết luận giám định sai do không cố ý của Người Giám định tư pháp.
Để nâng cao chất lượng hoạt động giám định tư pháp, cũng như đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong thời gian tới, tác giả bài viết đề nghị cần sửa đổi nội dung quy định này, theo hướng: Giám định viên “Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp đưa ra kết luận giám định sai sự thật mà gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, còn bị xử lý theo quy định của pháp luật về hình sự trong trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật”./.
THẾ DÂN
 

File đính kèm: Bai ve Trach nhiem Boi thuong cua GDVTP.docx

Xem thêm »