Tạo đột phá cho các hoạt động bổ trợ tư pháp để củng cố chất lượng xét xử của Tòa án:

Hoạt động bổ trợ tư pháp có quan hệ và tác động trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án, là công cụ không thể thiếu để hỗ trợ người dân và các cơ quan tiến hành tố tụng trọng một nền tư pháp dân chủ, pháp quyền. Trong 8 năm qua, “hoạt động bổ trợ tư pháp, cụ thể là công chứng, giám định tư pháp, luật sư và trợ giúp pháp lý, đã có bước phát triển mạnh mẽ, nhiều hoạt động có tính đột phá” nhờ thực hiện chủ trương xã hội hóa theo tinh thần Nghị quyết 49/NQ-TƯ...

Bổ trợ phát triển để “cùng bước” với tố tụng

Từ sau khi có Nghị quyết 49, hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp phần quan trọng thực hiện một trong trong những yêu cầu trọng tâm của cải cách tư pháp là nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa, “góp phần cải thiện một bước chất lượng hoạt động tố tụng, làm tăng thêm tính dân chủ, công bằng tại các phiên tòa, làm giảm thiểu các vụ án oan, sai”. Đó không chỉ là nhận định của Bộ Tư pháp mà còn là nhận xét chung của nhiều cơ quan, tổ chức và công dân khi đánh giá về hiệu quả của hoạt động luật sư thời gian qua.

So với giai đoạn trước khi có Nghị quyết 49, số vụ án các loại có luật sư tham gia đều tăng mạnh, tỷ lệ án có sự tham gia của luật sư do công dân mời ngày càng tăng so với án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. 100% các vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, 21,44% số vụ án hình sự, 6,8% số vụ việc về dân sự và hôn nhân gia đình, 75,6% số vụ việc về hành chính có luật sư tham gia là minh chứng cụ thể cho sự phát triển của nghề luật sư nhờ thực hiện Nghị quyết 49. Đa số các luật sư có tinh thần trách nhiệm cao trước khách hàng và trước pháp luật.

Theo phản ánh của nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là cơ quan điều tra, việc xử lý nhiều vụ án như các vụ án kinh tế, tham nhũng bị chậm đều do phải “chờ kết luận giám định tư pháp” nên từ nhiều năm, lĩnh vực giám định tư pháp luôn bị mang “án” là “điểm nghẽn” của quá trình tố tụng. Vì thế, Bộ Tư pháp đã tích cực thực hiện chủ trương “thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên” trong Nghị quyết 49 để tháo gỡ “điểm nghẽn” này. Cùng với sự phát triển “trông thấy” của hoạt động luật sư, sự phát triển của các tổ chức giám định tư pháp, đội ngũ giám định viên và triển vọng về một hệ thống các văn phòng giám định tư pháp (sẽ được thành lập sau khi có hướng dẫn chi tiết các nội dung liên quan góp phần thúc đẩy xã hội hóa, huy động nguồn lực của xã hội tham gia vào hoạt động giám định tư pháp) đã góp phần đưa lĩnh vực bổ trợ tư pháp không còn là lĩnh vực “hậu trường” mà đã thực sự tham gia vào “vòng quay tố tụng”.

Sau khi có chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, số lượng văn phòng công chứng và công chứng viên đã phát triển khá nhanh, các tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện gần 7 triệu hợp đồng, giao dịch, thu được 2.600 tỷ đồng. Bà Đỗ Hoàng Yến (Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp – Bộ Tư pháp) cho biết, “thực tiến đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng là hết sức đúng đắn, tạo điều kiện cho hoạt động công chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa”. Quan trọng là các hiện tượng tiêu cực trong công chứng được biết đến như “cò”, gây phiền hà cho người yêu cầu công chứng đều được giải quyết, giảm hẳn tình trạng quá tải công chứng…

Trợ giúp pháp lý là một chính sách “nhân văn đặc trưng”, hướng đến các đối tượng người nghèo, các nhóm yếu thế trong xã hội. Mặc dù mới mẻ và nhiều khó khăn song với sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, các tổ chức quốc tế, trợ giúp pháp lý đã được phát triển không ngừng và tiếp tục có sự phát triển với chủ trương xã hội hóa được ghi nhận trong Luật trợ giúp pháp lý và Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý để cụ thể hóa chủ trương của Nghị quyết 49. Đã có hơn 55% tổng số vụ việc của hơn 50% người thuộc diện được trợ giúp pháp lý được thực hiện 7 năm qua. Các cộng tác viên trợ giúp pháp lý cũng đã thực hiện đến 85% tổng số vụ việc trong lĩnh vực tố tụng.

Phá bỏ sự triển khai “cầm chừng”

Đánh giá về kết quả thực hiện Nghị quyết 49 của Bộ Tư pháp, đại diện các Bộ, ban, ngành trung ương đều nhất trí “Nghị quyết 49 đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho việc phát triển, lớn mạnh của hoạt động bổ trợ tư pháp ở nước ta, nhất là đối với các hoạt động bổ trợ “chủ đạo” là luật sư, công chứng, giám định tư pháp và trợ giúp pháp lý”. Dẫu vậy, phía sau những kết quả “rạng rỡ” đó thì còn đó những hạn chế nếu không được khắc phục thì chủ trương xã hội hóa lĩnh vực bổ trợ tư pháp trong Nghị quyết 49 không thể “tròn vẹn” khi hệ thống pháp luật liên quan chưa thực sự hoàn thiện, mô hình văn phòng công chứng còn manh mún, phạm vi xã hội hóa giám định tư pháp trong các lĩnh vực “không lớn, không thường xuyên” rất khó thu hút tổ chức, cá nhân tham gia xã hội hóa giám định tư pháp, thiếu qui định đẻ bảo đảm việc thực hiện xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý trên thực tiễn…

Do đó, “nâng cao nhận thức đúng đắn về chủ trương xã hội hóa và vận dụng sáng tạo trong hoạt động bổ trợ tư pháp” là một trong đề xuất của Bộ Tư pháp để thực hiện tốt chủ trương của Nghị quyết 49 về lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Thực tế, nhận thức chưa đầy đủ, hạn chế là “rào cản” rất lớn khiến chủ trương này có nơi, có lúc chỉ được thực hiện một cách “cầm chừng”, “cho có” mà thiếu sự quan tâm thích hợp cho sự phát triển đúng lộ trình để đạt kết quả đã đặt ra.

Nhìn nhận dưới góc độ quản lý nhà nước về các hoạt động bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp cũng đề xuất “tiếp tục khẳng định một cách nhất quán chủ trương, có kế hoạch, lộ trình cụ thể để đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, tạo cơ chế khuyến khích, huy động các cá nhân, tổ chức có điều kiện tham gia hỗ trợ, đóng góp trên tất cả các phương diện cho công tác bổ trợ tư pháp. Đây là phương thức “lấp” những thiếu hụt về nguồn lực đầu tư cho các công tác bổ trợ tư pháp. Và quan trọng là tạo điều kiện cho người dân có nhiều cơ hội lựa chọn, thụ hưởng các dịch vụ bổ trợ tư pháp phù hợp với khả năng, nhu cầu, “triệt tiêu” tình trạng quyền lợi của người dân, tổ chức, doanh nghiệp bị ảnh hưởng chỉ vì sự chậm chẽ, thiếu thực chất của bất kỳ hoạt động bổ trợ tư pháp nào.

Hoạt động công chứng, giám định, trợ giúp pháp lý không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích khách hàng mà còn có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động của cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí, hoạt động nghề nghiệp của các công chứng viên, giám định viên, trợ giúp viên pháp lý, luật sư còn “có thể gây ảnh hưởng đến công lý, tác động đến cơ chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội”. Nên muốn đảm bảo cho các hoạt động bổ trợ tư pháp “phát triển theo nhu cầu xã hội nhưng vẫn trong khuôn khổ pháp lý đã “vạch” ra”, công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về các lĩnh vực này. Đồng thời, không thể không phát huy vai trò tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng, luật sư như “lực lượng tự quản” giúp sức cho công tác quản lý nhà nước về các lĩnh vực này được sát sao “vào từng ngõ ngách của các nghề nghiệp bổ trợ tư pháp”…

Làm được như vậy, “mặc dù chỉ đóng vai trò bổ trợ cho Tòa án và hoạt động xét xử - trung tâm của cải cách tư pháp nhưng khi các hoạt động bổ trợ tư pháp được triển khai nghiêm túc, hiệu quả là tác động mang tính hiệu quả, bền vững tầm chiến lược cho cải cách tư pháp” như khẳng định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường./.

Huy Anh 

13/08/2013     
CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP
Địa chỉ: 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội. Điện thoại: 024.62739718 - Fax: 024.62739359. Email: banbientap@moj.gov.vn; cntt@moj.gov.vn.
Giấy phép cung cấp thông tin trên internet số 28/GP-BC ngày 25/03/2005.
Trưởng Ban biên tập: Tạ Thành Trung - Phó Cục trưởng Cục CNTT
Ghi rõ nguồn Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp (www.moj.gov.vn) khi trích dẫn lại tin từ địa chỉ này.
Chung nhan Tin Nhiem Mang