Pháp lệnh số 24/2004/PL-UBTVQH11 về Giám định Tư pháp được Uỷ Ban Thường vụ Quốc Hội ban hành vào ngày 29/9/2004 và có hiệu lực thi hành từ 01/01/2005, Nghị định số 67/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định Tư pháp được Chính phủ ban hành vào ngày 19/5/2005 và có hiệu lực thi hành từ 13/6/2005. Và Luật Giám định tư pháp số 13/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012, là một đạo luật quan trọng, liên quan đến hoạt động của các cơ quan tố tụng, tổ chức giám định tư pháp, tổ chức và cá nhân khác được trưng cầu, yêu cầu giám định, đặc biệt liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người giám định tư pháp, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cũng như những người tham gia tố tụng khác trong các vụ án.
Luật có 8 Chương, 46 Điều, quy định về giám định viên tư pháp; tổ chức giám định tư pháp; người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; hoạt động giám định tư pháp; chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp. Một số điểm mới đáng chú ý của Luật này như: Quy định việc giám định tư pháp còn được thực hiện theo yêu cầu của người yêu cầu giám định; Tổ chức giám định tư pháp còn có tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập (Văn phòng giám định tư pháp gồm Văn phòng giám định tư pháp do 01 giám định viên tư pháp thành lập, Văn phòng giám định tư pháp do 02 giám định viên tư pháp trở lên thành lập và đều quy định người đại diện theo pháp luật của Văn phòng giám định tư pháp là Trưởng văn phòng. Trưởng văn phòng giám định tư pháp phải là giám định viên tư pháp) và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; Tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên tư pháp còn có tiêu chuẩn có sức khỏe và tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn được quy định cụ thể hơn đó là trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn từ đủ 03 năm trở lên; Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp còn có Phiếu lý lịch tư pháp, Giấy xác nhận về thời gian thực tế hoạt động chuyên môn của cơ quan, tổ chức nơi người được đề nghị bổ nhiệm làm việc, Chứng chỉ đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ giám định đối với người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự, các giấy tờ khác chứng minh người được đề nghị bổ nhiệm đủ tiêu chuẩn theo quy định của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có thẩm quyền quản lý lĩnh vực giám định; Thời hạn bổ nhiệm giám định viên tư pháp là 20 ngày (trước là 15 ngày) kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ.
Và Luật còn quy định thêm trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp: Cố ý kéo dài thời gian thực hiện giám định tư pháp; Xúi giục, ép buộc người giám định tư pháp đưa ra kết luận giám định tư pháp sai sự thật; Can thiệp, cản trở việc thực hiện giám định của người giám định tư pháp; Theo đề nghị của giám định viên tư pháp là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có quyết định nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí hoặc thôi việc.
Luật Giám định tư pháp sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, Pháp lệnh giám định tư pháp số 24/2004/PL-UBTVQH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực; đồng thời, kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính về giám định tư pháp có nội dung khác với Luật này thì áp dụng quy định của Luật này.
Hải Triều